“Dĩ Đạo vi sự, danh viết đạo sĩ” - đặt Đạo làm đầu, gọi là đạo sĩ (Xuất Gia Nhân Duyên Kinh). Đạo giáo vốn là một tôn giáo của trí tuệ và từ bi. Những ý nghĩ sơ khởi về Đạo hiển xuất từ đời Viêm-Hoàng. Qua thời gian, đến thuở Lão-Trang, Đạo gia hiện diện và trình bày một cách suy tư nhưng không kém phần hệ thống về Đạo và Đức. Theo đó, những con người mang trong mình lí tưởng quy hướng Đại Đạo luôn định hình cùng đích của mình theo lẽ tự nhiên vô vi, thuần phác bão nhất.
Biên soạn: Đạo sỹ Vô Danh Tử
Đạo sĩ lúc hành lễ
Trong lịch sử Đạo giáo hơn 4.000 năm, luôn có những đạo sư, tổ sư, thiên sư, chân nhân và lịch đại tiên hiền nhìn thấu được thế sự, chế định các pháp môn, giới luật để đi đến tự do tuyệt đối - “dữ Đạo hợp Chân” - ở cùng, hoà mình trong Đại Đạo thay vì ràng buộc bởi luân lý đời thường. Các phương tiện pháp môn, dưỡng sinh, nội đan, ngoại đan, y học… chỉ cùng hướng về một mối - cùng đích là Đại Hoá, như Đạo Đức Kinh khi xưa đề cập - sự trở về với bản nguyên là mệnh của vạn vật vậy!
Tu sĩ Đạo giáo được gọi là đạo sĩ. Tín sĩ Toàn Chân phải qua quan cân, thụ giới; tín sĩ Chính Nhất phải truyền độ, thụ lục. Song, ý nghĩa thật sự của đạo sĩ không nằm ở những uy nghi hình thức. Một người dù đã qua các quy trình, nhưng thâm tâm không tín nhận Đại Đạo, đó cũng là điều vô nghĩa. Hoặc cầu Đạo vì danh, hoặc hành Đạo vì lợi, hoặc phục sức uy nghi cầu tước vị… đó đều là lừa người, lừa mình. Ý nghĩa thật sự của đời sống đạo sĩ là ở thánh ân chú rót, ở hạnh nguyện đại thừa và tình huynh đệ sư hữu. Cùng đích thật sự của người đạo sĩ là Đại Đạo, không phải phục sức hay uy nghi, không phải trí tuệ am tường hay danh lợi phù phiếm. Làm thế nào để tìm được sự cân bằng giữa lý tưởng và hiện thực là việc làm của mỗi cá nhân. Đạo giáo thường đề cập đến “tự nhiên”, nhằm mục đích nói với mọi sinh dân rằng chỉ khi đặt tấm lòng chân thật vào bản thân và không chạy theo vọng tưởng thì mới có thể tìm ra hướng tu tập đúng đắn hay nói gần gũi hơn là biết mình cần gì và phải làm gì.
Làm đạo sĩ phải có niềm tin. Đó không phải niềm tin thông thường, không phải mê tín truỵ lạc mà là minh tín và sùng tín. Trước thảy, niềm tin kính Tam Bảo là cơ sở tìm thấy sức mạnh vững chắc trong cuộc sống nhằm đối mặt với mọi khó khăn. Tam Bảo là một hệ thống nhất: Đạo ẩn tàng trong Kinh, qua Kinh biết Đạo; Kinh do Sư Bảo truyền thừa, nhờ Sư mà thụ diệu lý. Sự kế thừa Sư truyền cùng việc nghiền ngẫm diệu lý Đại Đạo qua Kinh văn chính là ngọn đuốc soi sáng cuộc đời hành trì của đạo sĩ và dẫn bước chúng sinh mê lạc.
Đạo giáo cung phụng số lượng lớn các vị tôn thần nhưng tính chất thờ cúng lại khác xa so với nhiều nền tôn giáo. Mặc dù nhiều nghi lễ được hành trì theo thời gian cố định nhằm tôn kính những thần minh cụ thể nhưng tuyệt nhiên, Đạo giáo không bao giờ có việc quy hướng về một vị tôn thần cố định. Mục đích cơ bản của sự tôn kính phần lớn nhiều tôn thần là giúp mọi người hiểu được chân lý và sau đó nhận ra Đạo. Các vị thần minh trong Đạo giáo như một sự xúc tiến để tín chúng quy phục về Đạo Cả - chính là Đại Đạo, là Tam Thanh mà thôi!
Các nghi lễ điển tế không làm nên đạo sĩ. Phục sức tự mua về khoác lên người không làm nên đạo nhân. Chỉ khi nào một tu sĩ giữ được niềm tin về cùng đích cũng như hạnh nguyện đại thừa, thánh ân chú rót, tình sư hữu thì mới có thể luỹ tiến tu tập. Chính những nền tảng đó xây dựng động lực để bản thân họ tự trở nên tốt hơn và đồng thời gửi gắm sự minh tín cùng lòng từ bi đến vạn hữu. Lấy Đạo làm đầu, gọi là đạo sĩ.
Nhiều tín sĩ nhìn đạo sĩ tác pháp hành khoa, liền muốn xin theo học để cốt sao có thể lễ bái như người đó. Hoặc có những người thấy đạo sĩ họa phù niệm chú, cũng muốn biết và học để thỏa mãn cái tôi cá nhân, đó vốn là thiên kiến sai lệch, không đúng chính giáo. Dù bạn có muốn cầu học đến đâu, nhưng mục đích không đúng, đạo sĩ khó lòng truyền.
Một người muốn trở thành đạo sĩ, vô luận Chính Nhất hay Toàn Chân, đều trải qua quá trình lâu dài, học tập từ căn bản. Thật ra nhiều người rất dễ chán nản khi nghe phải bắt đầu học từ căn bản: tín lý, giáo lý, tư tưởng, v.v… Họ thường cho rằng mình đã biết, hoặc lấy những kiến thức có phần sai lệch từ trước để chứng minh sự biết của mình về Đạo giáo chính thống. Thật tai hại và đồng thời cũng khó khăn cho vị đạo sĩ kia. Như ta hằng biết: chúng ta không thể trao truyền điều gì kể cả tình cảm và tri thức cho những người không chấp thuận nó.
Dù tiến nhập Toàn Chân hay Chính Nhất, trước tiên là học tập căn bản, kế đến là “quy y”. Quy y là bước đầu tiên để nhập Đạo. “Quy” tức quay về; “Y” tức nương tựa. Quy y là sự đánh dấu từ một tín sĩ chuyển đổi đạo thức vốn chưa biết, chưa tin, chưa hướng về Đạo trở thành người toàn tâm toàn ý, dành trọn đời mình cho cùng đích là Đạo Cả.
Quy y Tam Bảo gồm: Quy y vô thượng Đạo Bảo, tức Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo, đặng vĩnh thoát luân hồi khổ; Quy y vô thượng Kinh Bảo, tức Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh, đắc văn chính pháp; Quy y vô thượng Sư Bảo, tức Huyền Trung Đại Pháp Sư, ắt chẳng đọa lạc tà kiến. Tam Quy Y giới chính là “bản lề” trọng yếu trong cõi Trời-Đất, là căn cơ gốc gác Đạo Thần Tiên. Giả như có kẻ phát tâm làm theo, chính là đang kiến thiết lại thâm tâm, khiến cho vạn khí đều linh diệu, minh chân nhập lý, bao la vạn tượng, vô chướng vô ngại
Với Chính Nhất, sau khi quy y, phải trải qua truyền độ pháp môn mới được trở thành Đạo sĩ. Tổ Thiên Sư sáng lập tông giáo, kiến thiết pháp môn, có truyền độ là bí học thần tiên. Long Hổ Sơn Tự Hán Thiên Sư Phủ có lưu thông truyền độ điệp văn, điệp này mô tả rằng: “Phàm là tu sĩ, ứng vào danh tiếng Tổ sư truyền độ, dùng đó mà hoằng đạo tuyên hóa, tế thế lợi nhân, quy y hành trì”.
Trong hệ thống Chính Nhất, sau khi truyền độ, nếu muốn thăng thành đạo giáo pháp sư, tất nhiên phải thụ lục. Tương truyền, pháp lục này thuở miên viễn do Thái Thượng Lão Quân truyền ban cho Trương Đạo Lăng Thiên Sư, kế đó Thiên Sư lập giáo, lấy bộ lục này mà truyền thừa. Sau khi được truyền thụ pháp lục, người đó có thể xưng là “pháp sư”, tức có thể đăng đàn hành pháp. “Tam Đỗng Tu Đạo Nghi” nói: “Kẻ nào thụ Chính Nhất pháp lục, mới có thể đảm đương việc chương tiếu lễ nghi”.
Với Toàn Chân, sau khi quy y, phải trải qua quan cân pháp môn mới có thể xưng Đạo sĩ , gọi “pháp sư”. Thông thường, một đạo nhân sau khi quy y sẽ theo học cùng độ sư (thầy dạy) khoảng 3 năm, khi đáp ứng đủ điều kiện về tri thức đạo học cũng như tính cách, tư cách cá nhân, thầy sẽ cho phép quan cân xuất gia. Trong “Quan Cân Khoa Nghi” thuật rằng tích xưa Khâu Trường Xuân Chân Nhân thành Đạo, du hành khắp thiên hạ, xiển dương đạo phạm, diễn lễ khai đàn, truyền đạo chỉ quyết, giáo huấn chúng nhân,… Bởi sợ đạo chúng xuất gia vô khảo, khiến loạn huyền quy mà gia tăng tội nghiệt, cho nên chế điển Quan Căn Khoa Nghi, là bước đầu để kẻ tiến nhập huyền môn biết điều thâm lý áo tàng, lễ nghi giới luật.
Kế đó, đạo sĩ Toàn Chân còn cần thụ đắc giới luật. Toàn Chân quan niệm học đạo không giữ giới, vô duyên đăng tiên giới. Ngay trong Sơ Chân Giới Văn, Vương Thường Nguyệt Tổ Sư nói: “Giới thị
Toàn Chân đệ nhất quan” – Giới luật là cửa ải đầu tiên của Toàn Chân Đạo. Giới luật Toàn Chân, từ thuở miên viễn lưu truyền đến nay, vốn từ Thái Thượng giáng thụ khoa nghi, tức thành truyền thống Đạo giáo. Vốn Toàn Chân “sinh sau đẻ muộn” trong lịch sử hình thành và phát triển Đạo giáo, nên nhờ đó, giới luật Toàn Chân phần đa kế thừa tinh túy các giới luật trong Đạo giáo sẵn có, các Tổ phát huy thêm điều mới mẻ để ứng hợp thời đại, ngoài ra phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ Phật giáo.
Sau đời Ngụy Tấn, Đạo giáo đã có giới luật vô cùng phong phú như Tam Quy Giới, Ngũ Giới, Thập Giới, Lão Quân Bát Thập Nhất Giới, phần đa yêu cầu phụng Đạo đệ tử tất tu trì giới, thủ giới. Đến thời Khâu Tổ, Ngài lập ra Toàn Chân Truyền Giới Nghi. Vào những năm Thuận Trị đời nhà Thanh, Toàn Chân Long Môn Phái Đệ Thất Đại Luật Sư – Vương Thường Nguyệt lại sáng lập Toàn Chân tòng lâm, tại Bắc Kinh Bạch Vân Quán khai đàn truyền giới. Toàn Chân Phái Giới Pháp Khoa Nghi có “Sơ Chân Giới”, “Trung Cực Giới” và “Thiên Tiên Đại Giới”, hợp xưng “Tam Đàn Đại Giới”.
Theo như truyền thống Toàn Chân, căn cứ trên “Sơ Chân Giới Văn”, sau khi thụ Tam Quy Y Giới, kế đến thụ Ngũ Giới, kế lại thụ Sơ Chân Thập Giới, qua quá trình tu tập lũy tiến đến Trung Cực Giới và cuối cùng là Thiên Tiên Đại Giới. Đạo sĩ một khi thụ Thiên Tiên giới, xưng là Diệu Đạo Sư; thụ Trung Cực giới, xưng Diệu Đức Sư; thụ Sơ Chân giới, xưng Diệu Hành Sư. Theo đó, Sơ Chân Giới có 10 điều giới, Trung Cực giới có 300 điều giới, Thiên Tiên giới có 270 điều giới.
Trong “Toàn Chân Thanh Quy”, Lục Đạo Hòa (Thông Huyền Tử) viết: “Đạo hữu tông nguyên. Tiên hữu pháp phái. Pháp phái bất minh. Kỳ nhân bất chân. Tông nguyên bất thanh. Kỳ giáo bất chính. Sở dĩ Toàn Chân tham phóng. Tất kê pháp phái tông nguyên”. Đạo có tông nguyên. Tiên có pháp phái. Pháp phái bất minh, người ắt mê lạc bản chân. Tông nguyên bất thanh, giáo pháp ắt chẳng được thuần chính. Cho nên phải nương vào pháp phái đặng xiển dương Đạo Phạm, không phải nhân danh Đại Đạo mà cho rằng bản thân không tông không phải, không cội không căn cũng có thể đảm đương việc này.
Bạn muốn tìm các pháp khí, pháp bảo, đạo bào đạo sĩ hoặc cần thỉnh tượng Tam Thanh Đạo Giáo, Tam Thanh Đạo Tổ, Tiên tượng Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Giáo tổ Trương Thiên Sư, Tượng Tứ Ngự, Tam Quan Đại Đế, Chư Tiên Thánh, Thần Tài Thổ Địa...Liên hệ shop thegioitamlinh.vn tại 74a Mai Thị Lựu, Phường Đa Kao, Quận 1, Tp.HCM
Tiên tượng tổ sư Trương Thiên Sư tại Thegioitamlinh.vn
Tín sĩ tại gia tu tập như thế nào? Hẳn có nhiều người mới bắt đầu tiếp cận Đạo giáo trông rất bối rối khi nói về cách tu tập. Tín sĩ tại gia có nhiều mối quan tâm khác nhau: công việc, gia đình, con cái, nhu cầu đi lại, vui chơi, v.v… Vì vậy, cốt lõi nhất của việc tín sĩ tu tập tại gia là biết sắp xếp “thời gian dành cho Đạo”.
Trong một ngày, ta thử hỏi: Ta dành cho Đạo được bao nhiêu? Có khi nào vì đời sống bộn bề mà ta quên mất Đại Đạo đang hiện diện? Có khi nào ta quên thủ thỉ, cầu nguyện cùng Ngài? Quả thế, khác với Đạo sĩ trú ngụ cung quán - các vị nương theo các pháp để dành toàn tâm toàn ý đời mình cho Đạo, các vị tín sĩ còn lo bận nhiều thứ nên đôi lúc “quên” mất việc dành thời gian tỏ bày cùng Ngài.
Trước hết, tín sĩ tại gia cần có một khoảng thời gian trong ngày để “cầu nguyện” với Đại Đạo. Khi tỏ lòng với Đạo, trước hết là ta nhớ đến Ngài hiển hiện trong cuộc đời chính mình. Đó có thể là bất cứ khi nào rảnh rỗi, ta có thể đọc bảo cáo (Tam Thanh, Di La, Tam Quan, Cứu Khổ) hay niệm thánh hiệu (Đại La Tam Bảo Thiên Tôn, Tam Nguyên Xá Tội Thiên Tôn, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn). Đọc bảo cáo có thể 9 biến, niệm Thánh có thể 81 lần, đó là cách ta nhớ về, nương tựa, tỏ bày sự thành tín của mình với Đại Đạo.
Thứ đến, tín sĩ tại gia có thể tham khảo các kinh điển nền tảng như Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh để trau dồi đạo thức. Đôi lúc, ta nghĩ đọc qua một lần phần dịch và bình chú là đã thông hiểu. Song, chúng ta cũng nên nghiền ngẫm để có thể phát hiện thêm những điều lý thú, bổ ích cho riêng mình. Ngoài ra, tín sĩ có thể bái phỏng, hỏi thăm các vị Đạo sĩ về một vấn đề nào đó mình quan tâm để trau dồi, tìm hiểu thêm khi cần thiết.
Nữa là, tại gia, nếu ai có khả năng, có thể giữ trai giới (ăn chay, trì bảo cáo, hạn chế kích thích dục tình,…) trong dịp Rằm, mồng Một, các lễ tiết đặc biệt. Tín đồ ở nhà cũng có thể thành tâm thờ cúng các vị thần như Thái Thượng Lão Quân, Ngọc Hoàng, Tam Quan, Lữ Tổ,…
Quý tín sĩ cũng chớ quên một điều quan trọng rằng tu tập là sửa đổi bản thân mình. Với người nhà phải hoà thuận yêu thương, với cha mẹ phải hiếu thuận cung kính, với người ngoài phải hoà nhã lịch thiệp. Chính những giá trị đó làm triển nở thêm những điều lành thánh bên trong mình, giúp ta mạnh sức hơn trên đường lữ thứ.
Tín sĩ tại gia cũng có thể hành hương, đến các đền miếu để thắp hương, nguyện cầu vào các dịp như Tam Nguyên, Bát Tiết, Sóc-Vọng, Thanh Minh,… Qua đó, chúng ta cùng cầu nguyện cho người sống thêm phúc thọ, kẻ khuất được siêu thăng. Vào đêm trước ngày hành hương, ta nên trai giới, tắm rửa sạch sẽ, thanh lọc cơ thể và tâm trí chính mình. Đến điện đài cung quán, miếu đền chớ nên bất kính cợt nhả, không nên cởi trần hay hở hang. Đến các nơi ấy, gặp Đạo sĩ có thể chào “Từ bi” hay “Phúc Sinh Vô Lượng”.
Thật ra nhiều vị hỏi chúng tôi rằng ở nhà thì nên đọc kinh gì. Đây là câu hỏi khiến chúng tôi hơi bối rối. Không phải vì giấu pháp hay mật truyền mà quan điểm cá nhân chúng tôi là nên học hiểu kinh rồi hãy tụng. Chí như trì tụng một cách thuộc lòng nhưng không hiểu nội hàm bên trong, hẳn rất khó cho tín chúng. Đạo vô Kinh bất thụ, vô Sư bất truyền. Đạo giáo tại Việt Nam còn non yếu, chưa có cơ sở để tín chúng hội tập học hỏi kinh điển, vậy nên tốt nhất vẫn là khuyến đọc cáo. Trong phạm vi cho phép, đôi khi chúng tôi vẫn đăng bài bình chú các bảo cáo, quý tín sĩ có thể tham khảo cùng.
Việc tu tập tại gia như chúng tôi nói, không để lỡ một khi nào chúng ta bỏ quên Đại Đạo hiện diện trong đời mình. Khi ta nương tựa, tín nhận toàn vẹn Đại Đạo, khi ấy, ta cũng đang trên đường trở về với Ngài.
“Thiên Đàn Ngọc Cách” xuất hiện đời nhà Tống đã hệ thống phẩm trật của một Chính Nhất Đạo sĩ Cho đến đời Nam Tống, phẩm trật này cũng mô phỏng theo hệ thống phẩm trật quan lại thế tục. Các khái niệm về phẩm cấp, phẩm trật, phẩm giai cũng từ giai đoạn này mà hình thành và phát triển. Trong các triều đại nhà Minh và nhà Thanh, những tác phẩm điển tịch bắt đầu áp dụng mạnh mẽ vào chính nhất thụ lục khoa nghi lẫn kinh điển. Từ đó, Hán Thiên Sư Phủ bắt đầu thay mặt Thiên Đình cấp phát những bằng chứng đạo tịch cho các đạo sĩ. Nói vậy không có nghĩa là Đạo sĩ đã được thành tiên trong Thiên Đình mà như một sự minh chứng đủ tư cách hành pháp.
Nguồn bài viết do Đạo sĩ Vô Danh Tử và Càn khôn tử biên soạn
Pháp lục phân thành 5 cấp. Gồm: Ban đầu thụ “Thái Thượng Tam Ngũ Đô Công Kinh Lục”, là chính lục phẩm, thất phẩm hàm. Thứ nhì nếu được thăng lục, liền thụ “Chính Nhất Minh Uy Kinh Lục” là chính tứ phẩm, ngũ phẩm hàm. Kế lại được thụ “Thượng Thanh Ngũ Lôi Kinh Lục” là chính tam phẩm hàm. Sau thăng “Thượng Thanh Tam Đỗng Ngũ Lôi Kinh Lục”, là chính nhị phẩm hàm. Cuối là tấn thăng “Thượng Thanh Đại Đỗng Kinh Lục”, là chính nhất phẩm hàm. Trong đó, “Thượng Thanh Đại Đỗng Kinh Lục” chỉ truyền cho truyền thừa Thiên Sư, không truyền người ngoài.
Một Đạo sĩ thông qua quá trình truyền độ thụ lục, án theo “Thiên Đàn Ngọc Cách” sau khi thụ đắc pháp danh, thần chức pháp sư, có thể đại thiên tuyên pháp, trai tiếu kỳ nhương cùng nhiều hoạt động khác.
Ngoài pháp lục, ta còn biết hoặc nghe qua “pháp vị”. Pháp vị cũng tựa như học vị - bằng cấp ngày nay. Pháp vị được nhắc đến lần đầu tiên trong “Thái Thượng Đỗng Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi”. Pháp vị là hệ thống trao tặng các chức vụ giảng dạy khác nhau cho các Đạo sĩ tùy vào trình độ tu học. Đây là một trong những hệ thống căn bản, hình thành trật tự Đạo giáo thuở xa xưa.
Thời xưa, trong chế độ thụ lục, pháp lục danh hàm được trao cho các Đạo sĩ dựa trên cấp đẳng pháp lục và trình độ tu học mà họ đạt được. Từ thấp đến cao có Chính Nhất Khoa Nghi, Tam Hoàng (hoặc Đỗng Thần) Khoa Nghi, Linh Bảo (hoặc Đỗng Huyền) Khoa Nghi, Thượng Thanh (hoặc Đỗng Chân) Khoa Nghi, hệ thống lại xưng “Tam Đỗng Pháp Vị”.
Trong thụ lục “Tam Đỗng Phụng Đạo Khoa Giới Doanh Thủy” có “Thứ Đệ Nghi”, còn xưng “Pháp vị nguyên” tức cấp bậc có được khi nhận và giảng dạy khác nhau dựa trên thực hành. Mỗi pháp vị cho đến pháp lục đều có số lượng quan binh thần tướng, phù chú, pháp khí, v.v… tương ứng. Chỉ khi Đạo sĩ đạt được một pháp lục nhất định, mới đủ tư cách sử dụng các tài nguyên tương ứng, chủ trì các nghi thức tương ức.
Vào thời Lục Triều, Đạo giáo lên tên một số kinh điển đặt theo pháp vị từ thấp đến cao như Đạo Đức Kinh Pháp Vị, Thái Bình Kinh Pháp Vị, Thái Thanh Kinh Pháp Vị, v.v… Đến thời Nam Bắc Triều trở về sau, căn cứ vào pháp mạch mà phát triển, xuất hiện các pháp vị mới không thuộc Tam Đỗng Tứ Phụ như Thăng Huyền Pháp Vị, Đỗng Uyên Pháp Vị, Bắc Đế Pháp Vị,…
Thời Tùy-Đường, trong “Pháp Thứ Nghi”, liệt ra những giai thứ pháp vị đệ tử ứng với việc thụ kinh, thụ giới, thụ lục hoặc những vật dụng mà mỗi cập đệ tử nên nhận. Mỗi Đạo sĩ ở mỗi pháp vị khác nhau sẽ kế thừa các môn học khác nhau từ thầy họ. Ví như Chính Nhất Pháp Vị sẽ có: Chính nhất triều chân nghi, chính nhất trai nghi, quan tấu chương biểu nghi, duyệt lục nghi, tiếu lục nghi.
Từ thời Đường, trong “Thụ Lục Thứ Đệ Pháp Tín Nghi” viết rằng thứ tự tiếp nhận pháp vị là: Chính Nhất Pháp Vị, Đạo Đức Pháp Vị, Đỗng Thần Pháp Vị, Thăng Huyền Pháp Vị, Đỗng Huyền Pháp Vị, Ngũ Phù Pháp Vị, Hà Đồ Pháp Vị, Đỗng Chân Pháp Vị, Tất Đạo Pháp Vị. Các pháp vị này có mức độ và đối tượng tiếp nhận, thụ pháp khác nhau.
Như vậy, pháp vị là chứng minh học vị trong dòng truyền thừa pháp mạch, thần hệ tương ứng. Pháp vị thể hiện sự công nhận về trình độ tu học trong cả đời Đạo sĩ Chính Nhất phái và trao cho họ những quyền lợi tương ứng. So với phẩm trật, pháp vị có nhiều cấp khác nhau tùy pháp chức, kinh điển, giới luật, phù chú, khảo thí chứng minh trình độ, cảnh giới của Đạo sĩ.
QUY Y, XUẤT GIA VẤN ĐÁP
* Hỏi: Quy Y của Đạo giáo là gì?
Đáp: Thứ nhất quy Thân. Nương nhờ Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo mà không vạ luân hồi triển chuyển, xưng Đạo Bảo; Thứ nhì quy Thần, y theo ba mươi sáu bộ Tôn Kinh có thể đốn ngộ chính pháp, gọi Kinh Bảo; Thứ ba quy Mệnh, cậy trông Huyền Trung Đại Pháp Sư đoạn tuyệt tà kiến, viết Sư Bảo. Tam Quy Y giới chính là “bản lề” trọng yếu trong cõi Trời-Đất, là căn cơ gốc gác đạo thần tiên. Giả như có kẻ phát tâm làm theo, chính là đang kiến thiết lại thâm tâm, khiến cho vạn khí đều linh diệu, minh chân nhập lý, bao la hữu tượng, vô chướng vô ngại. Phàm kẻ nào trì giữ Tam Quy Y giới, có thể khiến trời đất Thần Minh đẹp lòng, vui mừng khánh khoái. Tai mắt thần trí nhờ đó khai khuếch thông tỏ. Vạn vật nương đó mà kính trọng nể nang. Lục phủ theo đó mà điều hòa an thái. Chúng Chân lại cảm lòng kẻ hành trì tuân giữ giới văn, tỏ lòng thương xót hộ vệ sinh linh. Cha mẹ cũng được triêm hưởng ân phúc trường thọ, nhân thân hòa thuận yên vui.
* Hỏi: Xuất gia trong Đạo giáo là gì và ai có thể xuất gia?
Đáp: Xuất gia là rời nhà, nhà có hai nét nghĩa: gia quyến và thể xác. Rời gia quyến đoạn tuyệt ái ân, hiểu đơn thuần là không chấp trước trong các mối quan hệ mà sinh phiền não, gỡ bỏ triền buộc về các mối duyên, mở lòng làm phúc lợi cho cả người thân lẫn kẻ lạ, không giữ riêng cho cá nhân hay gia đình. Rời thể xác là rời xa tam nghiệp thập ác, chẳng câu nệ trong thất tình lục dục, tiết độ khu khiển hợp tình.
Phàm xuất gia trong Đạo giáo, không không bị giới hạn hay phân biệt bởi vùng miền, nghề nghiệp, giới tính, tính dục, dân tộc, phong tục, v.v… Tất cả đều được Đại Đạo xông xênh đón mừng. Xuất gia là ân điển, không phải là điều kiện để được điều này điều khác. Muốn xuất gia phải giữ thân tâm như “chiếc lược” - phàm chiếc lược có răng lược và khoảng trống mới nên được công dụng, ý khuyên lơn rằng nhân thế nên giữ điều cần giữ, bỏ điều cần bỏ, cửa Đạo nào khép kín với ai bao giờ!
Ngoài ra, người đã quy y Đạo giáo gọi là tín sĩ, việc xuất gia trở thành đạo sĩ hay không là tuỳ thuộc vào lựa chọn cá nhân, không ép buộc với bất kỳ ai, trong mọi hoàn cảnh.
Hỏi: Đạo giáo là tôn giáo độc thần hay đa thần?
Đáp: Đạo Đức Kinh nói: “Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh Vạn vật”. Huyết Hồ Kinh thuật lời Nguyên Thuỷ Thiên Tôn (ứng ngôi Đạo Bảo) rằng: Vạn vật do Ta sinh; Vạn linh do Ta hoá”. Đạo giáo tuy nhiều thần thánh, nhưng không phải là sự lựa chọn để chúng sinh quy hướng về một cá nhân nào. Tất cả Thánh chúng Tiên Chân chỉ hướng về Đấng Đạo và các Ngài cũng như một dấu chỉ thiêng liêng để quy hướng vạn vật về với Đại Đạo. Chỉ duy nhất một Đại Đạo vô hình vô tướng, vô biên vô tận. Đạo giáo là một tôn giáo độc thần, nhưng được thể hiện một cách ý nhị đặc biệt thông qua hệ thống thần thánh đồ sộ trong phả hệ của mình.
* Hỏi: Sống đời đạo sĩ là như thế nào?
Đáp: Đạo sĩ trong mắt nhiều người rất thần bí, chẳng hạn như trấn ma, vẽ bùa, chữa bệnh cứu mạng, bói toán chiêm tinh. Hầu hết mọi người vẫn nghĩ đạo sĩ như những truyện phim hoặc tiểu thuyết. Kì thực, đạo sĩ chỉ đơn thuần là lấy Đạo làm đầu, làm cùng đích tối thượng của mình hướng đến. Và để đạt được lý tưởng đó, đạo sĩ phải hành pháp, các pháp có thể như phù chú, triều khoa, lễ thánh, thí thực, độ vong,… nhưng pháp môn phương tiện là biểu tướng, không nên chấp tướng mà lầm vào mê tín. Đơn cử, tu vi mạnh vẽ phù linh nghiệm - mê tín dị đoan, phải biết rằng vẽ phù là nương vào Đạo lực - tha lực Thiên Tôn chứ không phải tự lực cá nhân, phù là biểu trưng cho Lời Đạo - Kinh Bảo, là vân triện biểu trưng Huyền lý, cho nên dùng phù là xin ân Đại Đạo đổ rót phàm thế cho khoa sự với mục đích chuyên biệt.